61. Vì sao chúng ta lại khóc?
Cơ thể chúng ta tiết ra 3 loại nước mắt khác nhau. Nước mắt cơ bản bôi trơn nhãn cầu, được tạo ra liên tục với gần 300ml mỗi ngày. Còn nước mắt phản xạ được tiết ra để phản ứng lại các tác nhân gây kích thích hoặc rửa các chất kích thích gây khó chịu như bụi, ớt, hành... Loại thứ ba được mắt sản xuất khi cảm xúc dâng tràn.
Tâm trạng trào dâng cảm xúc kích thích hệ thần kinh sọ não chuyển tải chất dẫn truyền thần kinh đến tuyến lệ, đồng thời làm tăng huyết áp trên mặt khi đó làm tăng lưu lượng nước mắt. Những giọt nước mắt cảm xúc chứa hàm lượng cao mangan và nội tiết tố prolactin (thường đóng vai trò kích thích tuyến vú tiết sữa). Con người là động vật duy nhất có nước mắt cảm xúc.
62. Vi khuẩn có thể bị nhiễm khuẩn không?
Có. Khi đó, vi khuẩn có cấu trúc nhỏ hơn tấn công vi khuẩn vật chủ từ bên trong.
63. Đối lập có thực sự hút nhau?
Không. Người ta có vẻ thích chọn đối tác (bạn đời) là những người giống mình đến 3 trong 5 nét tính cách chính: tính dễ chịu, tận tâm, cởi mở, hướng ngoại và chịu thương chịu khó.
64. Lượng sắt trong máu có bị ảnh hưởng bởi từ trường mạnh?
Có, nhưng rất yếu. Những chuyển động nhiệt ngẫu nhiên ngăn các phân tử huyết sắc tố hình thành lưỡng cực từ trường bền vững (từ trường Trái đất được coi là một lưỡng cực từ trường).
65. Tại sao mây lơ lửng?
Tình trạng bốc hơi lên cao của không khí ẩm nóng (hình thành các đám mây khi nguội) cũng đóng vai trò giữ mây bay lơ lửng trên trời. Tổng lượng nước của một đám mây trung bình nặng tương đương 200 con voi đực, nhưng nó không rớt xuống đất vì lượng nước ấy tồn tại dưới dạng những hạt nước và tinh thể băng bé xíu. Giọt nước lớn nhất cũng chỉ có bán kính 0,1 mm. Giọt nước cỡ như vậy khi rơi tự do sẽ gặp phải lực cản của không khí lớn đến nỗi vận tốc tối đa của nó chỉ còn 30 cm/giây. Nhưng trong đám mây, vận tốc rơi xuống tương đương vận tốc hướng lên của luồng khí bốc hơi từ mặt đất. Chỉ khi những hạt nước này kết hợp lại đủ lớn thì mới rơi xuống đất thành mưa. Vận tốc không khí cần thiết để giữ cho mây lơ lửng còn phụ thuộc vào hình dạng đám mây.
66. Nếu bị tuyệt chủng, liệu nhân loại sẽ tiến hóa trở lại từ vượn người?
Có thể lắm. Nếu chúng ta bị tuyệt chủng bởi dịch bệnh đặc trưng nào đó, có khả năng một loài vượn người khác sẽ tiếp tục tiến hóa với trí thông minh vượt trội hơn và phát triển thành dáng đi thẳng đứng bằng hai chân.
67. Trong âm nhạc có toán học không?
Có. Có một loạt mối liên hệ giữa toán học và âm nhạc – từ mối quan hệ về độ dài của dây đàn được gảy và các nốt nhạc chúng tạo ra cho đến tính đối xứng trong nhạc cantata của Johann Sebastian Bach (cha đẻ của nhạc cổ điển).
68. Mảnh kim loại ghép trong đầu có thể hút nam châm?
Không. Bởi kim loại dùng trong các bộ phận giả, chẳng hạn titan, đều là hợp kim không nhiễm từ. Vì vậy bạn có thể thoải mái khi mang mảnh kim loại ghép trong đầu mà không phải lo bị nam châm hút.
69. Có ngôi sao nào thoát ra khỏi dải ngân hà và lang thang trong vũ trụ?
Có. Một ngôi sao có thể bị văng ra khỏi dải ngân hà sau khi tiến gần đến lỗ đen trên quỹ đạo.
70. Tại sao chúng ta có 5 ngón tay và 5 ngón chân?
Có lẽ là do ngẫu nhiên. Tất cả các loài bốn chân (nhóm động vật có xương sống bao gồm động vật có vú, bò sát, chim và loài lưỡng cư) đều có chung tổ tiên là loài cá có “5 ngón” trên vây sống thời kỷ Devon, khoảng 365 triệu năm về trước. Hồ sơ hóa thạch cũng cho thấy những loài cá có 6 và 7 “ngón tay” trên vây cũng xuất hiện vào thời điểm này. Tuy nhiên, các nhà khoa học không tìm được bằng chứng lý giải tại sao hình dạng 5 ngón còn sót lại để phù hợp với đời sống trên cạn.
Có thể việc có ít xương ngón tay cho phép cá trở nên mạnh hơn và điều này có ích khi cá trườn khỏi mặt nước. Tuy nhiên, không có gì bí ẩn về con số 5. Chính sức ép tiến hóa đã khiến nhiều loài hợp nhất các ngón tay và chân lại với nhau để có móng vuốt cứng và dày hơn nhằm thích nghi tốt hơn với môi trường sống đặc trưng của chúng 71. Tại sao bồ câu hay lắc đầu?
Giả thuyết hợp lý nhất đó là cũng giống như lý do chúng ta đảo mắt xung quanh – để ổn định hình ảnh xung quanh trong khi di chuyển. Khi bồ câu đi trên máy chạy bộ (cảnh quan xung quanh dường như không thay đổi) nên đầu của nó không có lắc. Không phải loài chim nào cũng có thói quen lắc đầu như bồ câu – vấn đề này chưa được khoa học lý giải đầy đủ.
72. Vì sao không khí biển tốt cho sức khỏe?
Không hẳn hoàn toàn như vậy. Các khu nghỉ dưỡng dọc bờ biển được ưa thích vì có bầu không khí trong lành – có lẽ là so với bầu không khí đầy bụi khói trong thành phố. Cái mùi “có lợi cho sức khỏe” của không khí bờ biển có được là nhờ một hóa chất do vi khuẩn thường trú với mật độ thấp ở vùng ven biển tiết ra. Nhưng một nghiên cứu năm ngoái cho thấy muối biển có thể phản ứng với các hóa chất trong hơi nước bốc lên từ biển và làm trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm không khí ở các hải cảng đông đúc.
73. Tại sao khi để lâu, bánh ngọt và bánh mì lại cứng còn bánh quy lại mềm?
Câu trả lời căn bản cho bánh mì có liên quan đến các tinh thể tinh bột trong bột mì bị hóa keo khi nướng (chúng hút nước và trở nên mềm). Loại tinh bột này từ từ kết tinh sau vài ngày trong quá trình thoái hóa tinh bột và làm cho bánh mì trở nên cứng hơn. Tinh bột trong bánh quy cũng theo giống quá trình này nhưng lại có thể bị lấn át bởi tác dụng của đường có trong công thức của nhiều loại bánh quy. Đường sẽ hút lấy nước từ không khí và là nguyên nhân làm cho bánh bị mềm. Bánh ngọt có thể trở nên cứng cũng có thể mềm tùy vào công thức làm bánh và cả hai quá trình có thể chịu ảnh hưởng bởi những thành phần khác trong bánh.
74. Cảm giác “ngờ ngợ” có thể giải thích được không?
Các công nhân Đức vào thế kỷ 19 cho rằng “ngờ ngợ” (déjà vu – tiếng Pháp có nghĩa cảm giác “đã gặp”, “đã nhìn thấy” nhằm chỉ cảm giác khó hiểu trước những sự việc dường như đã gặp, đã trải qua trước đó) là dạng cảm giác nhận thức. Nó xuất hiện khi hai quá trình cảm giác và nhận thức - thường xuất hiện cùng lúc - không đồng bộ ở một chừng mực nào đó. Nói theo ngôn ngữ hiện nay là hai quá trình “phục hồi” và “quen thuộc” trong não bộ không diễn ra đồng thời. Nhưng có nhiều giả thuyết khác, và không ai thực sự biết, vì vậy hiện tại câu trả lời là không thể giải thích.
75. Có thể thu năng lượng từ tia chớp không?
Về mặt lý thuyết là được. Nhưng thực tế e là không, bởi những trở ngại như thiết kế tụ điện để tích trữ năng lượng từ tia chớp thoáng qua.
76. Tại sao con người tiến hóa có ít lông trên cơ thể hơn vượn người?
Con người chỉ hoàn toàn mất đi những sợi ria cảm giác. Phần còn lại của cơ thể thực sự được che phủ bởi lớp lông tơ rất ngắn và mịn. Sự khác biệt giữa người và vượn người nằm ở số lượng và sự phân bổ lông tơ tương ứng với lông dài hơn và đậm hơn (còn gọi là lông già). Có rất nhiều giả thuyết được đưa ra nhằm giải thích trạng thái không lông của loài người, nhưng chưa có cái nào được đa số chấp nhận.
Có giả thuyết cho rằng lông trên cơ thể người bị thoái hóa trong thời kỳ sống nửa trên cạn nửa dưới nước vào thời tiền sử nhằm thích ứng với môi trường nóng bức trên hoang mạc châu Phi. Thậm chí con người vẫn chưa rụng hết lông cho đến khi người Neanderthal (loài người cổ đại sống ở châu Âu, châu Á và Bắc Phi) bắt đầu mặc quần áo khoảng 200 triệu năm về trước. Tuy nhiên, tất cả chỉ là suy đoán, bởi lông người không hóa thạch nên các nhà khoa học không chắc rằng phải chăng chỉ có loài người mới không có lông.
77. Thị lực 20:20 chính xác là gì?
Nếu thị giác có độ rõ nét hoàn hảo, bạn có thị lực 20/20 – dựa theo bảng đo thị lực do bác sĩ nhãn khoa Hà Lan Hermann Snellen thiết kế năm 1862. Phương pháp đo thị lực hiện vẫn còn được sử dụng này có hàng mẫu tự ABC thật lớn trên đầu, tiếp theo sau là những hàng chữ và số nhỏ dần. Chữ số 20 đầu tiên chỉ khoảng cách (tính bằng foot, 1 foot = 0,3 m) từ vị trí đứng hoặc ngồi của người được đo thị lực tới bảng đo. Chữ số 20 thứ hai cho biết khoảng cách mà người có thị lực tốt sẽ phải thấy và vẫn có thể đọc được cùng một hàng ký tự như người đang được đo (thị lực).
Nếu bạn có thị lực 20/30, có nghĩa là bạn thấy các ký tự ở cách xa 20 feet (khoảng 6 m) chỉ rõ bằng người có thị lực tốt nhìn ở khoảng cách 30 feet (9 m). Khoảng cách này ngày nay thường được đổi sang mét, nên thị lực “hoàn hảo” 20:20 có thể được viết là 6:6.
78. Tại sao bia lại có bọt trắng?
Màu nâu của bia bắt nguồn từ mạch nha - được tạo ra bằng cách lên men lúa mạch và sau đó đem rang. Rang ở nhiệt độ thấp, bia sẽ có màu sáng, và ngược lại. Bọt bia ở phía trên được bao quanh bởi màng bia, nhưng màng bia này quá mỏng đến nỗi nó không thể hấp thu đủ ánh sáng để tác động tới màu của ánh sáng trắng khi nó xuyên qua. Ánh sáng trắng phản chiếu từ bề mặt của bọt bia cũng giữ nguyên màu trắng, tạo nên hiệu ứng toàn màu trắng.
79. Tại sao lông chim không thấm nước?
Chim dùng mỏ lấy dầu ở phao câu gần đuôi rồi rỉa lên lông, bôi lên đó một lớp dầu. Lớp dầu này bảo vệ lớp lông tơ trên bộ lông vũ. Do nước không thể thấm qua lớp “áo choàng” này nên bộ lông của chim không thấm nước.
80. Một người nặng 65 kg có thể lướt ván nước với vận tốc chậm tối thiểu bao nhiêu trước khi chìm?
20 km/giờ, theo phép đo dựa theo Định luật chuyển động của Newton. Lực nâng (cơ thể) là phản xạ lại lực kéo khi lướt trên mặt nước. Giá trị của nó phụ thuộc vào tốc độ, diện tích ván trượt tiếp xúc trên mặt nước và góc ván trượt so với mặt nước. Qua phim ảnh về môn lướt ván thì góc trượt tiêu biểu là khoảng 15 độ và tốc độ 20 km/giờ sẽ giúp nâng trọng lượng cơ thể (65 kg) lên.
1. Vì sao châu chấu bay thành đàn? Châu chấu dù bay ở trên trời hay đỗ dưới mặt đất vẫn duy trì tính hợp quần. Đây không phải là sở thích nhất thời, mà do thói quen đẻ trứng và nhu cầu về mặt sinh lý của chúng. Việc châu chấu thích hoạt động thành đàn có quan hệ rất lớn đến thói quen đẻ trứng. Đến mùa giao phối, châu chấu lựa chọn vị trí đẻ trứng tương đối nghiêm khắc, thích hợp nhất là môi trường có chất đất cứng, có độ ẩm tương đối và có ánh sáng mặt trời trực tiếp. Trên những cánh đồng rộng lớn, khu vực có thể đáp ứng các tiêu chuẩn này tương đối ít, do vậy, châu chấu thường tập trung đẻ trứng hàng loạt trên một phạm vi không lớn lắm. Thêm vào đó, trong khu vực nhỏ này, chênh lệch độ ẩm là rất ít, khiến cho trứng nở đồng loạt, đến mức châu chấu non vừa chào đời đã hình thành thói quen sống cùng nhau, đi theo nhau. Mặt khác, châu chấu phải sống theo đàn cũng là do nhu cầu về mặt sinh lý. Chúng cần nhiệt độ cơ thể tương đối cao để hoạt động. Vì vậy, việc sống thành đàn sẽ giúp chúng duy trì nhiệt độ trong cơ thể. Tất cả những con châu chấu trong đàn đều có chung đặc điểm này. Bởi vậy, trước khi chúng kết đàn, chỉ cần vài con lượn vòng trên không trung, rất nhanh sau đó, những con khác dưới mặt đất sẽ cảm ứng và đồng loạt bay lên. 2. Vì sao trong cây có điện? Các điện tích dương thường tập trung ở dễ, và âm ở ngọn cây. Một số hoạt động sống trong cơ thể sinh vật tạo ra điện trường và dòng điện, gọi là điện sinh vật. Ở một số động vật, hiện tượng này rất rõ, ví dụ cá chình điện có thể dùng điện sinh vật để bắn chết những con mồi nhỏ. Trong cây cũng có điện, nhưng chỉ yếu hơn mà thôi. Dòng điện trong cơ thể thực vật yếu đến nỗi nếu không dùng đồng hồ điện siêu nhạy thì khó mà phát hiện ra. Nhưng dòng điện yếu không có nghĩa là không có. Vậy điện trong cây phát sinh như thế nào? Có rất nhiều nguyên nhân khiến cây sản sinh ra điện. Ví dụ ở rễ, dòng điện chạy từ chỗ này sang qua khác, vì sự chênh lệch điện tích do các đoạn rễ hấp thụ muối khoáng không đều. Bây giờ chúng ta hãy quan sát quá trình hấp thụ khoáng kali clorua của cây đậu tương. Các ion của kali clorua được hút vào rễ. Clo(-) từ rễ được hút lên các tế bào ngọn, làm tăng số ion âm trên ngọn, trong khi đó, các ion dương của K+ lại tập trung ở đầu rễ. Kết quả là xuất hiện một điện thế giữa ngọn và gốc. Tuy nhiên, cường độ dòng điện trong cây rất nhỏ. Theo tính toán, tổng dòng điện trong 100 tỷ cây đậu tương mới đủ thắp sáng một ngọn đèn 100 W. 3. Tại sao tai biết tiếng động từ đâu dội tới? Âm thanh đến hai tai nhanh, chậm và có cường độ khác nhau, vì thế bạn biết được hướng của nó. Một người từ nhỏ đã điếc một tai. Khi bạn gọi, người đó phải ngó quanh ngó quẩn tứ phía xem bạn ở đâu gọi tới. Tại sao người này lại mất khả năng xác định vị trí? Ấy là vì muốn xác định hướng của tiếng động, bạn cần phải "thông" cả hai tai. Thí nghiệm tâm lý học cho thấy, nếu chỉ có một tai nhận được kích thích của hai nhóm sóng âm nối tiếp nhau, từ hai phía có cường độ như nhau, khoảng cách bằng nhau, nhưng khác hướng, thì hiệu ứng sóng âm của hai nhóm đó với tai là như nhau. Như vậy, người ta không thể nào phân biệt được hướng của nguồn âm. Nếu cả hai tai đều nhận được tín hiệu, tình hình lại khác. Một trong những căn cứ để ta nhận ra hướng tiếng động là chênh lệch thời gian giữa hai tai. Nếu nguồn âm ở bên phải người nghe, sóng âm đến tai phải nhanh hơn đến tai trái một khoảnh khắc. Dùng đồng hồ đo chính xác sẽ thấy, cho dù chênh lệch thời gian chỉ là 30% giây, người ta vẫn nhận ra được hướng tiếng động. Căn cứ thứ hai là chênh lệch về cường độ âm thanh. Nguồn âm có thể đập vào tai ở gần mạnh hơn tai kia một chút. Cường độ dù nhỏ cũng đủ để chúng ta xác định được chính xác vị trí của tiếng động ở bên trái hay bên phải. Còn một vấn đề nữa: Nếu nguồn âm ở bất kỳ nơi nào trên mặt phẳng dọc giữa mặt, sóng âm đến cùng một lúc, đập vào màng nhĩ với cường độ như nhau, khi đó liệu chúng ta có thể nói chính xác vị trí của nguồn âm không? Nó ở đằng trước, đằng sau, ở trên hay ở dưới? Rất đơn giản, ta chỉ cần ngoảnh đầu đi là xong. Bình thường, ta thực hiện động tác này rất nhẹ nhàng nên hầu như không để ý tới. Trong thực tế, bao giờ ta cũng ngoảnh đầu, đồng thời dùng mắt để giúp tìm hướng có tiếng động. 4. Chim sẻ ăn hạt, vì sao nuôi con bằng sâu? Chim sẻ là loài chim thường gặp nhất, đâu đâu cũng có chúng, từ rìa làng, sân phơi đến ruộng lúa… Chỉ cần nhìn qua cái mỏ hình nón, thô ngắn và khỏe là đủ biết chúng mổ hạt “ác” như thế nào. Ấy vậy mà mùa sinh sản, chúng lại tíu tít tìm sâu cho chim non. Té ra, chim non trưởng thành nhanh, trao đổi chất của chúng rất mạnh, do đó cần thức ăn giàu dinh dưỡng để thỏa mãn nhu cầu hàng ngày. Hơn nữa, chim non còn quá bé, chức năng dạ dày kém, chưa đủ sức nghiền nát và tiêu hóa quả, hạt ngũ cốc cứng. Vì vậy, một số loài chim bình thường ăn hạt, thời kỳ nuôi con thì luôn tìm kiếm thức ăn động vật, chứa nhiều dưỡng chất cho con. Ví dụ chim tê điêu, loài chim quý hiếm của Trung Quốc, bình thường ăn quả dại, lúc nuôi chim non thì bắt chim non của loài khác để chăm con mình, có khi nó bắt cả một con kỷ (loài hươu nhỏ) xé ra từng mảnh rồi đem cho con. Chim sẻ sinh sản đúng dịp xuân hè, mùa côn trùng nở rộ, nên chúng tha hồ bắt các loại côn trùng có hàm lượng protein cao. 5. Vì sao ở vùng núi có nhiều khoáng sản kim loại? Khu công nghiệp Ruhr ở Tây Đức vốn là một vùng đồi núi với nhiều khoáng sản kim loại. Một điều thực tế là ở đồng bằng có rất ít khoáng sản kim loại. Vì thế, những nước đồng bằng tuy mạnh về nông nghiệp, nhưng lại thiếu các mỏ quặng đồng, sắt, kẽm... Bạn có biết vì sao kim loại lại hay xuất hiện ở vùng đồi núi không? Vùng đối núi là những khu vực bị nhô lên khi vỏ trái đất vận động. Tùy theo sự nhô lên của vỏ trái đất mà những dung nham nóng chảy (magma) - vốn nằm sâu dưới lòng đất - có cơ hội nhô lên và hoạt động. Magma chứa một lượng lớn các muối của axit silic. Ngoài ra, magma còn chứa nhiều kim loại nóng chảy như vàng, đồng, chì, thiếc, molybden... Khi magma trào lên đến gần mặt đất, do nhiệt độ giảm, nó nguội đi, rắn thành đá peridot, đá hoa cương... Những đá rắn này chủ yếu do các muối của axit silic hợp thành. Còn các nguyên tố kim loại, khi gặp điều kiện nhiệt độ, áp lực thích hợp, thường phân ly khỏi magma, hình thành quặng khoáng sản kim loại. Các quặng này xuất hiện tương đối tập trung, hình thành mỏ. Chính vì thế, nguời ta hay tìm thấy khoáng sản kim loại ở vùng đồi núi.
Nguồn: http://bacbaphi.com.vn/entertainment/showthread.php?192705-%E0%B9%91%DB%A9%DB%9E%DB%A9%E0%B9%91-1000-c%C3%A2u-h%E1%BB%8Fi-T%E1%BA%A1i-sao-%E0%B9%91%DB%A9%DB%9E%DB%A9%E0%B9%91
Forum : http://bacbaphi.com.vn.vn